Đôi nét về tiểu sử và cuộc đời của Charles Darwin
- Được biết đến : Khởi nguồn của thuyết tiến hóa thông qua chọn lọc tự nhiên
- Sinh : 12/2/1809 tại Shrewsbury, Shropshire, Anh
- Cha mẹ : Robert Waring Darwin và Susannah Wedgwood
- Qua đời : ngày 19 tháng 4 năm 1882 tại Downe, Kent, Anh Quốc
- Giáo dục : Đại học Edinburgh, Scotland, Đại học Cambridge, Anh
- Tác phẩm đã xuất bản : Về nguồn gốc của các loài bằng phương pháp chọn lọc tự nhiên
- Giải thưởng và Danh dự : Huân chương Hoàng gia, Huân chương Wallaston, Huân chương Copley (tất cả cho những thành tích xuất sắc trong khoa học)
- Vợ / chồng : Emma Wedgwood
- Trẻ em : William Erasmus Darwin, Anne Elizabeth Darwin, Mary Eleanor Darwin, Henrietta Emma Darwin, George Howard Darwin, Elizabeth Darwin, Francis Darwin, Leonard Darwin, Horace Darwin, Charles Waring Darwin
- Trích dẫn đáng chú ý : “Trong cuộc đấu tranh sinh tồn, kẻ khỏe mạnh nhất chiến thắng các đối thủ của mình vì họ thành công trong việc thích nghi tốt nhất với môi trường của mình.”
Hành trình đầu đời
Charles Darwin sinh ngày 12 tháng 2 năm 1809 tại Shrewsbury, Anh. Cha ông là một bác sĩ y khoa, và mẹ ông là con gái của người thợ gốm nổi tiếng Josiah Wedgwood. Mẹ của Darwin qua đời khi anh mới 8 tuổi, và anh về cơ bản được nuôi dưỡng bởi các chị gái của mình. Khi còn nhỏ, ông không phải là một học sinh xuất sắc, nhưng ông đã tiếp tục theo học tại Trường Y Đại học Edinburgh ở Scotland, lúc đầu có ý định trở thành một bác sĩ.
Darwin rất không thích học y khoa và cuối cùng đã theo học tại Cambridge. Ông dự định trở thành một bộ trưởng Anh giáo trước khi bắt đầu quan tâm sâu sắc đến thực vật học. Ông nhận bằng vào năm 1831.
Darwin đã trải qua hơn 500 ngày trên biển và khoảng 1.200 ngày trên đất liền trong chuyến đi. Ông nghiên cứu thực vật, động vật, hóa thạch, và các thành tạo địa chất và viết các quan sát của mình vào một loạt sổ tay. Trong thời gian dài trên biển, ông đã sắp xếp các ghi chép của mình.
Hành trình của tàu Beagle
Theo đề nghị của một giáo sư đại học, Charles Darwin được chấp nhận đi chuyến thứ hai của HMS Beagle . Con tàu đang thực hiện một chuyến thám hiểm khoa học tới Nam Mỹ và các đảo ở Nam Thái Bình Dương, rời đi vào cuối tháng 12 năm 1831. Tàu Beagle trở về Anh gần 5 năm sau đó, vào tháng 10 năm 1836.
Vị trí của Darwin trên con tàu rất đặc biệt. Một cựu thuyền trưởng của con tàu đã trở nên chán nản trong một chuyến đi khoa học dài ngày vì người ta cho rằng anh ta không có người thông minh để trò chuyện khi ở trên biển. Bộ Hải quân Anh nghĩ rằng việc cử một quý ông trẻ thông minh đi cùng trong một chuyến đi sẽ phục vụ một mục đích tổng hợp: anh ta có thể nghiên cứu và lập hồ sơ về những khám phá đồng thời cung cấp sự đồng hành thông minh cho thuyền trưởng. Darwin đã được chọn để lên tàu.
Thời gian ở Galapagos
Khi ở Galapagos, Charles Darwin đã thực hiện một loạt các quan sát có tác động đáng kể đến các lý thuyết mới của ông về chọn lọc tự nhiên
Beagle đã dành khoảng năm tuần ở Quần đảo Galapagos . Trong thời gian đó, Charles Darwin đã thực hiện một loạt các quan sát có tác động đáng kể đến các lý thuyết mới của ông về chọn lọc tự nhiên. Ông đặc biệt bị thu hút bởi khám phá ra sự khác biệt lớn giữa các loài trên các hòn đảo khác nhau. Ông đã viết: Sự phân bố những người thuê nhà của quần đảo này sẽ không quá tuyệt vời nếu, chẳng hạn, một hòn đảo có chim bìm bịp và hòn đảo thứ hai có một số loài khá khác biệt khác … Nhưng đó là hoàn cảnh mà một số hòn đảo sở hữu riêng của chúng. các loài rùa, giòi, chim sẻ, và nhiều loài thực vật, những loài này có cùng thói quen chung, chiếm các tình huống tương tự, và hiển nhiên lấp đầy cùng một vị trí trong nền kinh tế tự nhiên của quần đảo này, khiến tôi ngạc nhiên.
Darwin đã đến thăm bốn trong số các quần đảo Galapagos, bao gồm đảo Chatham (nay là San Cristobal), Charles (nay là Floreana), Albemarle và James (nay là Santiago). Ông dành nhiều thời gian để phác thảo, thu thập các mẫu vật và quan sát các loài động vật cũng như hành vi của chúng. Những khám phá của ông sẽ thay đổi thế giới khoa học và đặt nền móng cho tôn giáo phương Tây.
Tác phẩm, bài viết sớm của Charles Darwin
Ba năm sau khi trở về Anh, Darwin xuất bản “Tạp chí Nghiên cứu”, tường thuật về những quan sát của ông trong chuyến thám hiểm trên tàu Beagle. Cuốn sách là một tường thuật thú vị về các chuyến du hành khoa học của Darwin và đủ phổ biến để được xuất bản trong các ấn bản liên tiếp.
Darwin cũng đã biên tập năm tập có tựa đề “Động vật học trong chuyến du hành của Beagle”, trong đó có sự đóng góp của các nhà khoa học khác. Chính Darwin đã viết các phần liên quan đến sự phân bố của các loài động vật và ghi chú địa chất trên các hóa thạch mà ông đã nhìn thấy.
Chặng đường phát triển tư duy của Darwin
Tất nhiên, chuyến đi trên tàu Beagle là một sự kiện quan trọng trong cuộc đời Charles Darwin, nhưng những quan sát của ông về chuyến thám hiểm hầu như không phải là ảnh hưởng duy nhất đến sự phát triển lý thuyết chọn lọc tự nhiên của ông. Anh ấy cũng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi những gì anh ấy đang đọc.
Năm 1838, Darwin đọc một “Bài luận về Nguyên lý Dân số”, mà triết gia người Anh Thomas Malthus đã viết trước đó 40 năm. Những ý tưởng của Malthus đã giúp Darwin hoàn thiện quan niệm của riêng mình về “sự sống sót của những người khỏe nhất”.
Ý tưởng về chọn lọc tự nhiên
Malthus đã viết về dân số quá đông và thảo luận về cách một số thành viên trong xã hội có thể sống sót trong điều kiện sống khó khăn. Sau khi đọc Malthus, Charles Darwin tiếp tục thu thập các mẫu và dữ liệu khoa học, cuối cùng dành 20 năm để tinh chỉnh suy nghĩ của mình về chọn lọc tự nhiên.
Darwin kết hôn với Emma Wedgwood vào năm 1839. Bệnh tật đã thúc đẩy ông chuyển từ London đến nước này vào năm 1842. Các nghiên cứu khoa học của ông vẫn tiếp tục, và ông đã dành nhiều năm nghiên cứu các dạng sống khác nhau để hiểu rõ hơn về quá trình tiến hóa của chúng.
Công bố kiệt tác
Cuốn sách: Về Nguồn gốc của Các loài Bằng Phương pháp Chọn lọc Tự nhiên
Danh tiếng của Charles Darwin với tư cách là một nhà tự nhiên học và địa chất học đã phát triển trong suốt những năm 1840 và 1850, nhưng ông đã không tiết lộ rộng rãi ý tưởng của mình về chọn lọc tự nhiên. Bạn bè đã thúc giục ông xuất bản chúng vào cuối những năm 1850; chính việc xuất bản một bài luận của Alfred Russell Wallace bày tỏ những suy nghĩ tương tự đã khuyến khích Darwin viết một cuốn sách đề ra những ý tưởng của riêng mình.
Vào tháng 7 năm 1858, Darwin và Wallace cùng xuất hiện tại Hiệp hội Linnean London. Và vào tháng 11 năm 1859, Darwin đã xuất bản cuốn sách đảm bảo vị trí của mình trong lịch sử: “Về Nguồn gốc của Các loài Bằng Phương pháp Chọn lọc Tự nhiên.”
Thời gian qua đời
“Về Nguồn gốc Các Loài” đã được xuất bản trong một số ấn bản, với Charles Darwin định kỳ biên tập và cập nhật tài liệu trong cuốn sách. Và trong khi xã hội tranh luận về công việc của Darwin, ông sống một cuộc sống yên tĩnh ở vùng nông thôn nước Anh, với ý định tiến hành các thí nghiệm thực vật. Ông rất được kính trọng, được coi như một ông tổ lớn của khoa học. Ông mất vào ngày 19 tháng 4 năm 1882, và được vinh danh bằng việc được chôn cất tại Tu viện Westminster ở Luân Đôn .
Di sản
Charles Darwin không phải là người đầu tiên đề xuất rằng thực vật và động vật thích nghi với hoàn cảnh và tiến hóa theo thời gian. Nhưng cuốn sách của Darwin đã đưa ra giả thuyết của ông ở một định dạng dễ tiếp cận và dẫn đến tranh cãi. Lý thuyết của Darwin có tác động gần như ngay lập tức đến tôn giáo, khoa học và xã hội nói chung.
Charles Darwin – Nhà bác học không ngừng học
Charles Darwin sinh ra trong gia đình có truyền thống học hành nên ông luôn cố gắng học cho đến cuối đời
Sách Kể chuyện tấm gương hiếu chép rằng một đêm mùa đông, thời tiết lạnh giá, khi mọi người đã ngủ say, con của Charles Darwin (1809-1882, nhà sinh học thiên tài của thế giới), chợt thức giấc và thấy phòng cha mình vẫn sáng đèn.
Người con ngạc nhiên bước lại gần, thấy cha đang cặm cụi bên tập tài liệu, liền nói: “Cha đã là nhà bác học rồi, còn phải ngày đêm nghiên cứu làm gì cho mệt?”. Charles Darwin mỉm cười và trả lời con trai rằng: “Bác học không có nghĩa là ngừng học con ạ”.
Khi đã tuổi cao sức yếu, Darwin vẫn cố học thêm tiếng Đức, thứ ngôn ngữ tương đối khó. Một lần vì thương cha, người con ngỏ ý muốn giúp ông dịch những tài liệu tiếng Đức.
Ông gạt đi và nói: “Cha muốn suy nghĩ bằng bộ óc của mình, không phải bằng bộ óc của người khác. Về sau, ông đã học được, đọc, viết rất thông thạo tiếng Đức và nhiều ngoại ngữ khác nữa”.
Sở thích quan sát cuộc sống của muôn loài của Charles Darwin
Theo sách Kể chuyện tấm gương hiếu học, Charles Darwin sinh ra trong gia đình có truyền thống học hành. Tuy nhiên, từ nhỏ, niềm say mê của cậu bé không phải những bài giảng ở trường học của thầy cô, mà là thế giới thiên nhiên xung quanh.
Charles Darwin thường thích quan sát cuộc sống của cỏ cây, hoa lá, đặc biệt là các loài côn trùng. Không giống nhiều bạn bè cùng trang lứa khác, ngoài giờ học, Charles Darwin thường rong chơi, lang thang ở cánh đồng, săn tìm các loại côn trùng, cây cỏ.
Ở trường, kết quả học tập của Darwin không xuất sắc. Cậu bé khi đó dành phần lớn thời gian cho khoa học tự nhiên. Càng đi sâu vào nghiên cứu những bí ẩn thiên nhiên hoang dại, Darwin càng hứng thú, say mê. Ông thường mơ ước được đến những vùng đất xa xôi để nghiên cứu thêm về thiên nhiên, cuộc sống.
Sau khi tốt nghiệp đại học, Charles Darwin lên tàu Beagle – chiến hạm của hải quân Hoàng gia Anh – bắt đầu chuyến thám hiểm vòng quanh thế giới đầu tiên, thăm dò bí ẩn của tự nhiên, ở những vùng đất xa xôi.
Trong chuyến đi này, chỉ với một căn phòng chật hẹp trên tàu, suốt 5 năm liền, Darwin cặm cụi ghi chép những gì mình quan sát được ở những nơi con tàu đi qua.
5 năm trên chuyến tàu, ông đã khảo sát và phát hiện nhiều điều mới lạ. Qua nghiên cứu và so sánh, Darwin rút ra kết luận tất cả loài sinh vật, kể cả con người, đều nằm trong vòng chọn lọc tự nhiên. Những sinh vật thích nghi được với tự nhiên sẽ tồn tại, nếu không sẽ diệt vong.
Nghĩa là tất cả loài sinh vật đều có hai đặc điểm: Di truyền và biến dị. Chúng có những đặc tính giống tổ tiên của mình, đồng thời cũng có những đặc tính đã thay đổi để thích nghi môi trường sống xung quanh.
Có lần đến một hòn đảo, Darwin quan sát thấy đủ loại chim. Hình dạng của chúng rất giống nhau, nhưng có con mỏ vừa rộng vừa dẹt, có con mỏ lại vừa dài vừa bé. Đó là vì chúng phải thay đổi dần để thích hợp hơn với tập quán kiếm mồi trong môi trường sống của mình.
Thiên tài đam mê khoa học
Charles Darwin – thiên tài đam mê khoa học và di sản đồ sộ của ông
Trở về sau những chuyến đi này, Charles Darwin tập hợp những ghi chép của mình theo cách có hệ thống. Ông bước đầu trình bày được quan điểm cơ bản về sự tiến hóa của các sinh vật.
Đây chính là bản thảo cuốn sách Nguồn gốc của các loài rất nổi tiếng. Sau nhiều lần chỉnh sửa, Darwin thận trọng cho xuất bản cuốn sách và trở thành hiện tượng lúc bấy giờ.
Cuốn Nguồn gốc của các loài là kết quả của những năm tháng dày công quan sát, so sánh và nghiên cứu của Darwin, bắt nguồn từ sự đam mê đối với những bí ẩn thiên nhiên của ông ngay từ nhỏ.
Học thuyết tiến hóa ra đời đã làm rung chuyển mạnh mẽ quan điểm tôn giáo cho rằng chúa trời là nguồn gốc sáng tạo muôn loài và chỉ có chúa mới quyết định sự tồn vong hay diệt vong của chúng.
Nguồn gốc của các loài là tác phẩm khoa học xuất sắc, lỗi lạc của một người đã trở thành thiên tài nhờ niềm đam mê đối với khoa học, sự chăm chỉ, cần cù, niềm tin vào chân lý.
Một điều đáng quý nữa ở Charles Darwin là sau khi trở thành nhà bác học lừng danh, ông vẫn không ngừng học tập. Ông thường nhắc nhở con cái phải luôn học hỏi, trau dồi kiến thức.
Ứng dụng trong đời sống hiện nay
Chọn lọc tự nhiên (Natural Selection) là một khái niệm được Charles Darwin đề xuất và được chấp nhận rộng rãi. Darwin sử dụng vốn kiến thức của mình về Chọn lọc nhân tạo và tự nhiên học để giải thích về cơ chế của chọn lọc tự nhiên.
Để hiểu về cơ chế và định nghĩa của Chọn lọc tự nhiên thì chúng ta nên bắt đầu xem xét từ các ví dụ cụ thể. Ví dụ 1: Hình trên có 3 con hươu sống trong môi trường có những cái cây cao. Những con hươu cổ ngắn thì sẽ không thể nào với tới được vì thế không có đồ ăn. Chúng sẽ nhanh chóng chết. Chỉ những con cổ cao ăn được thì sẽ sống. Những con cao này giao phối với nhau duy trì đặc tính cổ cao cho con của chúng. Tương tự thế, đời con sẽ tiếp tục đào thảo những cá thể cổ thấp và duy trì cổ cao nếu môi trường không thay đổi. Ví dụ 2: Có thể bạn sẽ hơi bất ngờ nếu biết thực chất cải thìa, súp lơ, cải ngọt,... tóm lại là các loại cải, có chung nguồn gốc từ một cây cải hoang dã. Chúng ta thích ăn nhỏ xoăn, chúng ta chọn những cây cải lá tốt và duy trì chúng thành súp lơ. Chúng ta thích ăn ngọt, chúng ta chọn trong hàng ngàn cây đắng được 1 cây ngọt và duy trì thành cải ngọt.Tóm lại thì cơ chế hoạt động của nó là Đào thải những cá thể không phù hợp với môi trường, giữ những cá thể tốt phù hợp với môi trường.Một số lưu ý khi hiểu về chọn lọc tự nhiên:
- Chọn lọc tự nhiên chỉ tác động lên kiểu hình. Tự nhiên không thể nào biết được chúng ta có gene tốt hay không, nó chỉ cần biết bạn không hợp với hoàn cảnh này. Giống như việc ta có tài năng nhưng tài năng đó không cần thiết thì chẳng ai quan tâm
- Chọn lọc tự nhiên không tác động lên 1 cá thể mà là rất nhiều cá thể. Một con hươu có cổ cao nhưng nếu nó không có ai giao phối thì nó sẽ không truyền tính trạng đó cho con của nó.- Khi môi trường thay đổi thì hướng của chọn lọc thay đổi. Ví dụ dân Châu Á khi xưa đa phần da vàng, nhưng do việc chuộng da trắng nên chọn lọc tự nhiên hướng theo da trắng. Hay một giống cây chịu lạnh thì đột nhiên môi trường trở nên nóng hơn và thế là chỉ những cây mang tính chịu nóng vốn vô dụng lúc trước giờ trở thành yếu tố sống còn của loài.Và cứ trải qua hàng trăm triệu năm như thế, mọi vật thể, mọi sinh vật được chọn lọc để ổn định và tiến hóa dần.